Năm 2021, Tổ chức y tế thế giới WHO đã đưa ra phiên bản thứ VI, Cẩm nang WHO cho phòng xét nghiệm đánh giá và xử lý tinh dịch người. Nhìn lại các phiên bản trước, đầu tiên, trong những năm 1930, quy trình đánh giá khả năng sinh sản của nam giới được nghiên cứu, công bố và thực hành lâm sàng, đã xuất hiện nhu cầu tiêu chuẩn hóa các quy trình kiểm tra sức khỏe của nam giới.

Kết quả xét nghiệm tinh dịch đồ như thế nào là bình thường? | Vinmec

Nhưng đến năm 1965, Tổ chức y tế thế giới WHO mới thành lập đơn vị sinh sản người. Mãi đến năm 1980, Cẩm nang WHO cho phòng xét nghiệm đánh giá tinh dịch và tương tác giữa tinh trùng với chất nhầy cổ tử cung mới ra đời, đây là phiên bản đầu tiên. Năm 1987 WHO cập nhật phiên bản thứ II rồi đến phiên bản thứ III, IV, V và mới đây nhất là phiên bản thứ VI đã ra đời trong năm 2021.

Giữa các phiên bản có sự phát triển và thay đổi về nội dung, cách đánh giá cũng như ngưỡng tham khảo khác nhau. Ngưỡng tham khảo có xu hướng giảm dần theo các phiên bản. Và phiên bản 2010 đã được áp dụng rộng rãi đã cho thấy những hạn chế về ngưỡng tham khảo như chưa có giới hạn về độ tuổi nữ giới trong 5 nghiên cứu được sử dụng để xây dựng ngưỡng tham khảo, ngưỡng có giá trị quá thấp, có sự trùng lặp về các thông số tinh dịch ở nam giới vô sinh và sinh sản bình thường cũng như sự khác nhau về các thông số tinh dịch trong mỗi lần xuất tinh của cùng một nam giới.
 
Kết quả xét nghiệm tinh dịch đồ | Vinmec
 

Do đó, đến phiên bản lần thứ VI được ban hành vào tháng 7/2021 được đánh giá là bước tiến lớn, giải quyết được những vấn đề gây tranh luận trong phiên bản 2010, khắc phục được các hạn chế, kém hiệu quả và không còn được áp dụng của phiên bản thứ V. Trong đó, bổ sung, cập nhật các kỹ thuật mới trong đánh giá tinh trùng hiện nay và phân tích lại các thông số tham chiếu tinh dịch đồ, ý nghĩa các tham số này.

Quy trình xét nghiệm được chuẩn hóa: Hướng dẫn chi tiết thao tác, cách tính kết quả cụ thể, rõ ràng, giúp tăng tính chính xác của kết quả; phân tích thống kê để xác định ngưỡng giá trị tham khảo. Đồng thời cung cấp các xét nghiệm cận lâm sàng tin cậy, thuận tiện cho nghiên cứu khoa học và tinh dịch đồ trở thành xét nghiệm quan trọng trong chẩn đoán, tiên lượng và điều trị vô sinh nam.
 

Trong phiên bản mới này độ di động được đánh giá theo 4 loại: di động tiến tới nhanh, tiến tới chậm, di động tại chỗ và bất động. Ngoài ra, hình dạng tinh trùng được đánh giá một cách có hệ thống giúp đánh giá toàn diện và không  bỏ sót các bất thường trên tinh trùng. Và trong phiên bản này, “giới hạn quyết định” thay thế cho “ giới hạn tham khảo”. Không dùng giới hạn tham khảo nữa bởi vì, các giới hạn này không dùng để phân biệt nam giới bình thường và vô sinh, giới hạn quyết định này sẽ khác nhau với các mục đích khác nhau.
 

Trong phiên bản VI, giá trị tham khảo được thu nhận từ 3589 nam giới có vợ hoặc bạn tình đang có thai hoặc đã có thai trong vòng 12 tháng từ 12 quốc gia (Ý, Iran, Ai Cập, Trung Quốc, Úc, Mỹ, Pháp, Đan Mạch, Anh, Hy Lạp, Na Uy, Phần Lan ) thuộc 5 châu lục và các giá trị này không có số liệu từ Việt Nam. Ở đây, chúng tôi sử dụng giá trị tham khảo ở mức phân vị thứ V với khoảng tin cậy 95%. Các giá trị này cũng gần tương đương với phiên bản năm 2010.

Thông số
Parameter
Phân vị thứ 5
5th
Khoảng tin cậy 95%
95%CI
Thể tích (ml)
Volume
1,4 1,3-1,5
Mật độ (106/ml)
Concentration
16 15-18
Tổng số tinh trùng (106)
Total sperm number
39 35-40
Di động (%) (A+B+C)
Motility
42 40-43
Tiến tới (%) (A+B)
Progressive
30 29-31
Tỷ lệ sống
Vitality
54 50-56
Hình dạng bình thường (%)
Normal morphology
3,9-4,0

Bài viết khác